Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết
Đoàn kết, thống nhất mục tiêu, ý chí và hành động có
vai trò, ý nghĩa quyết định đến sự thành công của mọi tổ chức, cộng đồng và quốc
gia - dân tộc. Chân lý này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh tổng kết như sau:“Muốn
thắng lợi thì mỗi người phải dựa vào lực lượng của số đông người, tức là của tập
thể, của xã hội. Riêng lẻ từng cá nhân thì nhất định không thắng nổi tự nhiên,
không sống còn được. Để sống còn, loài người lại phải sản xuất mới có ăn, có mặc.
Sản xuất cũng phải dựa vào lực lượng của tập thể, của xã hội. Chỉ riêng lẻ cá
nhân cũng không sản xuất được. Thời đại chúng ta là thời đại văn minh, thời đại
cách mạng, mọi việc càng phải dựa vào của tập thể, của xã hội; cá nhân càng
không thể đứng riêng lẻ mà càng phải hòa mình trong tập thể, trong xã hội”.
Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, đoàn kết là một nhu cầu
khách quan, xuất phát từ mỗi cá nhân trong cộng đồng, vì lợi ích tương đồng mà
có xu hướng tập hợp lại, tạo thành một khối, phát huy và cộng hưởng thế mạnh của
từng cá nhân, tạo nên sức mạnh cộng đồng để cùng đạt mục tiêu chung. Trong sự
nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước cũng như trong công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, đoàn kết là một trong những nguyên tắc sống
còn được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng và thực hành trên ba nội dung
cơ bản sau:
Một là, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Đây là quan điểm chiến lược, cơ bản, nhất quán, có ý nghĩa sống còn, quyết định
thành công của cách mạng Việt Nam. Từ nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn
hoạt động cách mạng phong phú, Chủ tịch Hồ Chí Minh đúc rút rằng, cách mạng là
công việc khó khăn, phức tạp, nếu chỉ dựa vào ít người, vào lực lượng của một tổ
chức hay một đảng phái thì không thể thành công. Vì vậy, bên cạnh ý chí quyết
tâm, đường lối cách mạng đúng đắn, phải có sự đồng tâm hiệp lực của nhiều người,
phải dựa vào nhân dân, phải đoàn kết được đông đảo nhân dân và phát huy sức mạnh
to lớn của nhân dân. Người nói: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân.
Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Theo Chủ
tịch Hồ Chí Minh, đoàn kết toàn dân là nền tảng căn bản, là quan điểm xuyên suốt
của Đảng trong tiến trình cách mạng Việt Nam. “Đoàn kết là một chính sách dân tộc,
không phải là một thủ đoạn chính trị”. Để xây dựng, phát huy sức mạnh của khối
đại đoàn kết toàn dân tộc và nhân nguồn sức mạnh đó lên, Người luôn coi trọng
việc giác ngộ, tập hợp nhân dân vào hàng ngũ cách mạng, biến ý chí, tư tưởng
cách mạng của Đảng thành ý chí, tư tưởng, động lực để phát huy sức mạnh của
nhân dân. Đặc biệt, Người chỉ rõ bước đi, cơ sở nền tảng trong quá trình xây dựng
khối đại đoàn kết toàn dân tộc: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại
đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp
nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như
cái nền của nhà, gốc của cây”. Đây là bài học kinh nghiệm quý báu, có ý
nghĩa cực kỳ quan trọng đối với mọi giai đoạn của cách mạng nước ta, đặc biệt
là trong giai đoạn hiện nay.
Thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta
khẳng định, nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc là liên minh công nhân,
nông dân với đội ngũ trí thức; đồng thời, cần mở rộng đoàn kết, phát triển đội
ngũ doanh nhân, khuyến khích doanh nhân khởi nghiệp, sáng tạo, làm giàu chân
chính, gắn với thực hiện tốt trách nhiệm xã hội, đóng góp ngày càng nhiều cho sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, Đảng quan tâm giáo dục, bồi dưỡng,
phát triển thế hệ trẻ; bảo vệ bình đẳng giới và phát triển toàn diện phụ nữ;
chăm sóc, phát huy kinh nghiệm, trí tuệ và sự gương mẫu của người cao tuổi cũng
như bảo đảm sự bình đẳng, đoàn kết thực sự giữa các dân tộc, tôn giáo, giữa người
dân trong nước với đồng bào ở nước ngoài. Đó chính là điều kiện khách quan về
chính trị, làm nền tảng cho sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo
đảm quốc phòng, an ninh của đất nước.
Thứ hai, giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Đây
là một trong những nhiệm vụ cốt yếu, thường xuyên của công tác xây dựng Đảng,
là hạt nhân của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, một trong năm nguyên tắc tổ chức
và hoạt động của Đảng; bảo đảm sự thống nhất ý chí, hành động của toàn Đảng, là
cơ sở tạo nên sức mạnh to lớn của Đảng. Đảng ta lấy lợi ích của Tổ quốc, của
nhân dân làm mục tiêu cao nhất; đồng thời, Đảng cũng là hạt nhân tập hợp, định
hướng và lãnh đạo khối đại đoàn kết toàn dân tộc tiến hành sự nghiệp cách mạng.
Muốn tập hợp, xây dựng và lãnh đạo khối đại đoàn kết toàn dân tộc thì trước hết
phải xây dựng và giữ vững đoàn kết trong Đảng. Tinh thần đoàn kết, thống nhất
trong Đảng vừa quyết định sự tồn vong của Đảng, vừa là trung tâm, động lực của
khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Quan điểm này được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc
biệt coi trọng, thường xuyên nhắc nhở cán bộ, đảng viên. Người nói: “Ngày
nay, sự đoàn kết trong Đảng là quan trọng hơn bao giờ hết, nhất là sự
đoàn kết chặt chẽ giữa các cán bộ lãnh đạo”.
Theo Người, việc xây dựng, duy trì, bảo vệ cho được sự
đoàn kết, thống nhất trong nội bộ Đảng, từ chi bộ cơ sở đến Ban Chấp hành Trung
ương có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Trước
lúc đi xa, Bác căn dặn: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng
và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự
đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Quan điểm
này đã được toàn Đảng, đặc biệt là các đồng chí lãnh đạo cao nhất, cơ quan lãnh
đạo cao nhất của Đảng qua các thời kỳ luôn quán triệt và thấm nhuần. Lịch sử
lãnh đạo cách mạng của Đảng cho thấy, đoàn kết trong Đảng là động lực huy động
sức mạnh của cả dân tộc đưa đến thắng lợi của sự nghiệp cách mạng, đặc biệt là
trong những thời kỳ gay go, khó khăn, thách thức nhất.
Thứ ba, đoàn kết quốc tế. Là một chiến sĩ cộng sản
chân chính, thấm nhuần khẩu hiệu “vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức
đoàn kết lại” và từ thực tiễn hoạt động cách mạng phong phú, đi qua nhiều quốc
gia, tiếp xúc, tìm hiểu, nắm bắt, tiếp thu được giá trị, tinh hoa văn hóa của
nhiều dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh hiểu rõ hơn ai hết vai trò quan trọng của
đoàn kết quốc tế đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như trong
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Theo Người, đoàn kết quốc tế trước hết là đoàn
kết với những con người cụ thể, những cộng đồng, những người có cùng thân phận,
cùng hoàn cảnh; từ đó hình thành nên “tình hữu ái”, sự đoàn kết giữa người Việt
Nam, dân tộc Việt Nam với các dân tộc trên thế giới. Người cho rằng, đoàn kết
quốc tế là nguồn lực quan trọng, tăng cường sức mạnh cho sự nghiệp cách mạng
trong nước, giúp kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại thành sức mạnh
tổng hợp của cách mạng vì độc lập dân tộc, nền hòa bình, ổn định, phát triển và
sự bình đẳng giữa các nước trong khu vực và trên thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh
chỉ rõ, “sức mạnh, sự vĩ đại và sự bền bỉ của nhân dân Việt Nam cơ bản là ở sự
đoàn kết của nhân dân Việt Nam và ở sự ủng hộ của nhân dân thế giới... Sự đoàn
kết quốc tế có một ý nghĩa to lớn đối với chúng tôi”. Giống như quan điểm về
xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Người chỉ rõ lực lượng đoàn kết quốc tế
rất phong phú, đó là tất cả các quốc gia, tổ chức, cá nhân tôn trọng lợi ích
chính đáng của nhân dân và đất nước Việt Nam, nhưng nòng cốt là đoàn kết với
phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, phong trào hòa bình, dân chủ thế giới.
Người cũng xác định vai trò quan trọng của các quốc gia láng giềng và của các
nước lớn đối với Việt Nam.
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế
dựa trên những nguyên tắc cơ bản sau: 1- Bình đẳng về lợi ích và trách nhiệm;
2- Thực sự tôn trọng lẫn nhau; 3- Tự lực cánh sinh; 4- Có lý, có tình. Những
nguyên tắc này đã được Người nêu: “Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng đặt
mọi quan hệ thân thiện hợp tác với bất cứ một nước nào trên nguyên tắc: tôn trọng
sự hoàn chỉnh về chủ quyền và lãnh thổ của nhau, không xâm phạm lẫn nhau, không
can thiệp nội trị của nhau, bình đẳng cùng có lợi, và chung sống hòa bình”.
Đây là quan điểm chỉ đạo xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta trong quá trình đấu
tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước trước đây cũng như trong công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay; đó là “bảo đảm lợi ích tối cao của quốc
gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng
và cùng có lợi, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa
bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại;
chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên
có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế... Chú trọng phát triển quan hệ hợp tác, hữu
nghị truyền thống với các nước láng giềng, thúc đẩy quan hệ với các đối tác lớn,
đối tác quan trọng. Chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các nước ASEAN
xây dựng Cộng đồng vững mạnh. Mở rộng, làm sâu sắc hơn và nâng cao hiệu quả
quan hệ đối ngoại của Đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân”.
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về dân chủ và thực
hành dân chủ. Đứng trên phương diện chính trị, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra một
khái niệm đơn giản, dễ hiểu, đúng bản chất về dân chủ. Trong bài Dân vận đăng
trên báo Sự thật, ngày 15-10-1949, Bác viết: “Nước ta là nước dân chủ. Bao
nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc
đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc
là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do
dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại,
quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”.
Định nghĩa đó cũng chỉ ra phương thức tổ chức, vận
hành của xã hội dân chủ và nêu rõ mô hình nhà nước dân chủ ở nước ta là “nhân
dân bầu ra các hội đồng nhân dân, ủy ban kháng chiến hành chính địa phương và
Quốc hội cùng Chính phủ Trung ương”. Cán bộ, đảng viên phải nhận thức sâu sắc
rằng, nhân dân là chủ thể gốc của quyền lực nhà nước, nhân dân ủy quyền cho Nhà
nước thực hiện quyền lực nhân dân, phụng sự lợi ích, nhu cầu và cả ý chí của
nhân dân; Nhà nước nhận sự ủy quyền của nhân dân để bảo vệ quyền tự do, bình đẳng
của mọi công dân; đồng thời, Người khẳng định, “nhân dân có quyền lợi làm
chủ, thì phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận công dân, giữ đúng đạo đức
công dân, tức là: Tuân theo pháp luật Nhà nước. Tuân theo kỷ luật lao động”.
Theo Bác, dân chủ không có nghĩa là vô chính phủ, ai muốn làm gì thì làm; Nhà
nước nhận ủy quyền của nhân dân, xây dựng pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật
cho nhân dân, tổ chức thực thi và bảo vệ sự tôn nghiêm của pháp luật, người dân
phải tuân thủ pháp luật của Nhà nước.
Dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ bó hẹp
trong chính trị mà bao chứa trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, là quan hệ
giữa con người với con người, là các giá trị đạo lý làm người. Trong phát triển
kinh tế - xã hội, mà Người gọi là “công cuộc đổi mới và xây dựng” hay sự nghiệp
“kiến quốc”, cũng do dân, vì dân với mục tiêu trước tiên là làm cho nhân dân
“ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Trong phân phối, nguyên tắc
bình đẳng về quyền lợi được Người chỉ rõ: “Ai không làm thì không được ăn” và
“làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít”, trừ người già cả, trẻ em và người
ốm đau.
Thực hành dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh yêu cầu mỗi
cá nhân phải nhận thức mình là thành viên trong tập thể, phải đặt mình trong tập
thể và lắng nghe ý kiến của các thành viên khác, có trách nhiệm phát biểu,
trình bày ý kiến của mình vì lợi ích chung; đồng thời, phải phục tùng quyết định
của tập thể trong khi vẫn có quyền đề nghị được bảo lưu ý kiến khác biệt của bản
thân mình hoặc các thành viên khác. Mỗi thành viên, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo
và người đứng đầu cần nhận thức rõ trách nhiệm cá nhân, hoàn thành tốt nhiệm vụ
được tập thể giao phó và tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo,
cá nhân phụ trách. Mọi hành vi dùng quyền lực để đe dọa, ép buộc, tạo nên sự phục
tùng trong sợ hãi, hoặc dùng lợi ích vật chất, chức vụ để mua chuộc, mặc cả, tạo
nên sự đồng thuận đều là dân chủ hình thức, dân chủ giả hiệu, thậm chí là phản
dân chủ, cần phải lên án và đấu tranh loại bỏ.
Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, trong suốt
quá trình hình thành, phát triển và được nhân dân giao phó sứ mệnh là đảng cầm
quyền, Đảng ta luôn xác định rõ việc phục vụ nhân dân, chấp nhận gian khổ, hy
sinh đấu tranh vì lợi ích của nhân dân là tôn chỉ, mục đích, là lẽ sống của Đảng.
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Mọi đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước phải xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi
ích chính đáng của nhân dân, được nhân dân tham gia ý kiến. Dân chủ phải được
thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo
đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định
liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân, từ nêu sáng kiến, tham gia thảo
luận, tranh luận đến giám sát quá trình thực hiện. Tập trung xây dựng những văn
bản pháp luật liên quan trực tiếp đến quyền làm chủ của nhân dân... Thể chế hóa
và thực hiện tốt phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
Sưu tầm: tapchicongsan.org.vn/